Nơi đảo xa

Nhạc Trẻ

Người tình dễ thương

QUÊ HƯƠNG

QUÊ HƯƠNG
***

Em luôn là loài hoa

Em luôn là loài hoa 
Mà anh yêu anh thích

LỜI NÓI DỐI PHŨ PHÀNG

LỜI NÓI DỐI PHŨ PHÀNG

Hồi 04 - Nhà Hán đô hộ và Hai Bà Trưng (111 - 43 CN)

1. Chính sách nhà Tây Hán

Giao Châu mới thuộc nước người,
Dấy về Tây Hán là đời Nguyên phong .
Bản đồ vào sách hỗn đồng,
Đất chia chín quận , quan phong thú thần .
Đầu sai Thạch Đái trị dân,
Cầm quyền tiết việt giữ phần phong cương.
Tuần tuyên mới có Tích Quang,
Dạy dân lễ nghiã theo đường hoa phong .
Nhâm Diên khuyên việc canh nông,
Đổi nghề ngư liệp về trong khuê điền .
Sính nghi lại giúp bổng tiền,
Khiến người bần khổ thỏa nguyền thất gia.
Văn phong nhức dấy gần xa,
Tự hai hiền thú ấy là khai tiên.
Luân hồi trăm có dư niên,
Trải qua Đông Hán thừa tuyên mấy người.

2. Hai bà Trưng dựng nền Độc lập

Đường ca lâu đã vắng lời,
Đến như Tô Định là người chí hung.
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương.
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Aỉ quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.

Hồi 03 - Nhà Triệu (207 - 111 trước CN)




1. Triệu Vũ Vương thần phục nhà Hán

Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên ngu .
Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ ,
Trời nam riêng mở dư đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiếm dương ,
Mới sai Lục Giả đem sang ấn phù .
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thùy gìn giữ cơ đồ vững an.
Gặp khi gà Lữ gáy càn ,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lòng.
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhà.
Thân chinh hỏi tội Tràng sa
Mân, ?u muôn dặm mở ra một lần.
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục giả cựu thần lại sang.
Tỉ thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thủy chung.
Triệu vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chầu.
Ngoài tuy giữ lễ chư hầu,
Trong theo hiệu đế làm đầu nước ta.
Trăm hai mươi tuổi mới già,
Tính năm ngự vị kể già bảy mươi.

2. Triệu Văn Vương và Triệu Minh Vương

Văn vương vừa nối nghiệp đời,
Lửa binh đâu lại động ngoài biên cương.
Phong thư tâu với Hán hoàng,
Nghĩa thanh sớm đã giục đường cất quân.
Vương Khôi vâng lịnh tướng thần,
Aải lang quét sạch bui trần một phương.
Hán đình có chiếu ban sang,
Sai con Triệu lại theo đường cống nghi.
Xe rổng phút bỗng mây che,
Minh vương ở Hán lại về nối ngôi.
Bợm già bỗng rấm họa thai,
Vợ là Cù thị vốn người Hàm đan
Khuynh thành quen thói hồng nhan,
Đã chuyên sủng ái lại toan tranh hành.
Dâng thư xin với Hán đình,
Lập con thế tử, phong mình cung phi.

3. Cù Thị xin nhập Hán

Ai vương thơ ấu nối vì,
Mẹ là cù hậu, nhiều bề riêng tây.
Cầu phong đã rắp những ngày,
Ngoài thông Bắc sứ trong gầy lệ giai.
Khéo đâu dắc díu lạ đời,
Sứ là Thiếu Quý vẫn người tình nhân.
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao hoan đôi mặt, hòa thân một lòng.
Nghĩ rằng: về Hán là xong,
Tình riêng phải mượn phép công mới già.
Làm thư gửi sứ đưa qua;
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chầu.

4. Lữ Gia phá mưu Cù Thị

Lữ Gia là tướng ở đầu.
Đem lời can gián bây mưu xa gần.
Một hai ngăn đón hành trần:
"Để cho Triệu bích về Tần sao nên."
Nàng Cù đã quyết một bên.
Lại toan mượn lấy sứ quyền ra tay.
Tiệc vui chén cúc giở say,
Mắt đưa cao thấp, giáo lay dùng dằng.
Đang khi hoan yến nửa chừng,
Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước ra.
Chia quân cấm lữ về nhà,
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thần.
Đôi bên hiềm khích thêm phần
Mụ Cù yếu sức, sứ thần non gan.

5. Hán đánh Nam Việt

Vũ thư đạt đến Nam quan,
Hán sai binh mã hai ngàn kéo sang
Lữ Gia truyền hịch bốn phương:
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô;
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,
Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch không.
Rắp toan bán nước làm công.
Quên ơn thủa trước, không lòng mai sau.
Cũng tuồng Lữ Trĩ khác đâu,
Chồi non chẳng bẻ, rễ sâu khó đào.
Quan binh một trận đổ vào,
Lửa nào tiếc ngọc, nắng nào tiếc hoa.

6. Nhà Triệu mất

Vệ Dương lên nối nghiệp nhà,
Trong là quốc nạn, ngoài là địch nhân.
Hai nghìn giết sạch Hán quân,
Đem cờ sứ tiết để gần ải quan.
Tạ từ giả tiếng nói van,
Mấy nơi yếu hại sai quan đề phòng,
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh tiến, năm đường giáp công.
Trong thành một ngọn lửa thông,
Chiêu hàng ngoài mạc, hội đồng các dinh.
Chạy ra lại gặp truy binh,
Vệ vương, Lữ tướng buộc mình cửa hiên.
Kể từ Triệu lịch kỷ niên,
Năm ngoài chín chục, ngôi truyền năm vua.
Trách ai gây việc tranh đua,
Vắn đài vận nước, được thua cơ trời.

Hồi 02 - Nhà Thục

Hồi 02 - Nhà Thục (258 - 207 trước CN)




1. Thần Kim quy giúp vua Thục

Thục từ dứt nước Văn Lang
Đổi tên Âu Lạc, mới sang Loa thành.
Phong Khê là đất Vũ Ninh,
Xây thôi lại lở, công trình biết bao
Thục Vương thành ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang sứ hiện vào kim qui.
Hóa ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỉ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục vương cảm tạ tấm lòng hiệu linh.
Lại bàn đến sự chiến tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vương.
Dặn sau làm máy Linh Quang,
Chế ra thần nỏ, dự phòng việc quân.

2. Trung Hoa đánh Âu Lạc

Bấy giờ gặp hội cường Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châ Cơ muốn nặng túi tham,
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi.
Lĩnh Nam mấy chốn biên thùy,
Quế Lâm, Tượng quận thu về bản chương.
Đặt ra úy, lịnh rõ ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ gìn.
Hai người thống thuộc đã quen,
Long xuyên, Nam hải đôi bên lấn dần.
Chia nhau thủy bộ hai quân,
Tiên du ruổi ngựa, Đông tân đỗ thuyền.
Thục vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa.
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu úy. Nam là Thục vương.

3. Trọng Thủy và Mị Châu

Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia,
Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị Châu
Gả cho Trọng Thủy, con đầu Triệu vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần.
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh thân giả tiếng Bắc qui.
Đinh ninh dặn hết mọi bề thủy chung
Rằng: "Khi đôi nước tranh hùng,"
"Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?"
"Trùng lai dù họa có ngày,"
" Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau"
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.

4. Triệu Đà diệt Thục

Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu úy, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thần.
Vi kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi.
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu li,
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim qui đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm trỏn.
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?

Đại Nam quốc sử diễn ca - Hồi 1

Hồi 01 - Nhà Hồng Bàng (2879 - 258 Trước CN)



Thể thơ: Lục bát, thời kỳ: Nguyễn

1. Mở Đầu

Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh.
Nam Giao là cõi ly minh,
Thiên thư định phận rành rành từ xưa.
Phế hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị phi chép để đến giờ làm gương.

2. Kinh Dương Vương

Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra.
Cháu đời Viêm đế thứ ba,
Nối dòng Hỏa đức gọi là Đế Minh.
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều,
Vụ tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
Dòng thần sánh với người tiên,
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân trưởng nước ta,
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương.
Hóa cơ dựng mối luân thường.
Động đình sớm kết với nàng Thần long.
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì.

3. Lạc Long Quân và Âu Cơ

Lạc Long lại sánh ưu ky.
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
Noãn bào dù chuyện hoang đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thủy hỏa sinh ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Qui sơn, qui hải khác người biệt ly.
Lạc Long về chốn Nam thùy,
Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên.
Chủ trương chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rồng.

4. Hùng Vương và nước Văn Lang

Hùng Vương đô ở châu Phong,
Đấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Phong Châu, Phúc Lộc, Chu Dên,
Nhận trong địa chí về miền Sơn Tây;
Định Yên, Hà Nội đổi thay,
Đấy châu Giao Chỉ xưa nay còn truyền.
Tân Hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ Ninh tỉnh Bắc, Dương Tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn đồng,
Đấy là Vũ Định tiếp cùng biên manh;
Hoài Hoan: Nghệ; Cửu Chân: Thanh;
Việt Thường là cõi Trị, Bình Trung Châu.
Lạng là Lục Hải thượng du
Xa khơi Ninh Hải thuộc vào Quảng Yên.
Bình Văn, Cửu Đức còn tên,
Mà trong cương giới sơn xuyên chưa tường.
Trước sau đều gọi Hùng Vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
Lạc Hầu là tướng điều nguyên,
Vũ là Lạc Tướng giữ quyền quân cơ;
Đặt quan Bồ Chinh hữu tư
Chức danh một bực, đẳng uy một loài.

5. Giao thiệp với Trung Hoa

Vừa khi phong khí sơ khai,
Trinh nguyên xẩy đã gặp đời Đế Nghiêu.
Bình Dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng dương.
Thần Quy đem tiến Đào Đường,
Bắc Nam từ ấy giao bang là đầu.
Man dân ở chốn thượng lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị sinh.
Thánh nhân soi xét vật tình,
Đem loài thủy quái vẽ mình thổ nhân.
Từ sau tục mới văn thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
Dõi truyền một mối xa thư,
Nước non đầm ấm, mây mưa thái bình.
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
Thử thăm Trung Quốc thể nào,
Lại đem bạch trĩ dâng vào Chu Vương.
Ba trùng dịch lộ chưa tường,
Ban xe tí ngọ chỉ đường Nam quy.

6. Chuyện Phù Đổng Thiên Vương

Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh.
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo nhung cởi lại Linh San,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.
Miếu đình còn dầu cố viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không?

7. Chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh

Lại nghe trong thủa Lạc Hùng
Mị Châu có ả tư phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung trang.
Thừa long ai kẻ đông sàng sánh vai?
Bỗng đâu vừa thấy hai người,
Một Sơn Tinh với một loài Thủy Tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng Vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn Tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi gia.
Cung đàn tiếng địch xa xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thủy Tinh lỡ bước chậm chân,
Đùng đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịt mù,
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia,
Sơn thần hỏa phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.

8. Chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung

Bổ di còn chuyện trích tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái Châu.
Ra vào nương náu Hà Châu.
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên Dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng Các, buồm xuôi Nhị Hà,
Chử Đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên.
Thừa lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
Người thục nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng Vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hóa về Bồng Châu,
Đông An, Dạ Trạch đâu đâu,
Khói hương nghi ngút truyền sau muôn đời.

9. Hết đời Hồng Bàng

Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường Đế sau tầy Noãn Vương.

Thơ

SAO EM KHÔNG VỀ
Sao không về cùng anh nữa em ơi!
Gần bên nhau sao cách xa đến thế?
Chiếc giường ngày xưa giờ ấm còn một nửa
Nhà cửa vắng tanh vì thiếu bóng em
Sao em không về cùng anh nữa em ơi!
Lúc đêm về con khóc hoài nhớ mẹ
Hát ầu ơ...trái tim anh như xé
Sao em không về... nơi ấy cần em?